Sự phê phán mới trong tư tưởng của Marx về lao động thặng dư Lao động thặng dư

Theo nhà kinh tế học Fred Moseley, “lý thuyết kinh tế học tân cổ điển được phát triển, một phần nào đó, là để công kích quan điểm về lao động thặng dư hoặc giá trị thặng dư và để lý luận rằng những công nhân nhận được tất cả những giá trị được hiện thân trong những nỗ lực sáng tạo của họ.”

Một vài những phê phán cơ bản mới của học thuyết Marx có thể được bắt gặp trong những công trình của Pearson, Dalton, Boss, Hodgson và Harris.

Nhà phân tích chủ nghĩa Marx John Roemer không thừa nhận cái mà ông ấy gọi là “định nghĩa cơ bản của chủ nghĩa Marx” (sau Michio Morishima): sự tồn tại của lao động thặng dư là cần thiết và là điều kiện đủ cho lợi nhuận. Ông chứng minh rằng định nghĩa này là sai theo logic. Mặc dù vậy, chính Marx chưa bao giờ lý luận rằng lao động thặng dư là một điều kiện đủ cho lợi nhuận, mà chỉ là một điều kiện cơ bản cần thiết (Morishima tập trung vào việc chứng minh rằng, bắt đầu từ sự tồn tại của lợi nhuận được biểu lộ trong những thuật ngữ giá cả, chúng ta có thể rút ra được sự tồn tại của giá trị là một kết quả logic). Năm lý do đó là:

  • Lợi nhuận trong một quá trình hoạt động tư bản “rút cục” cũng chỉ là một khẳng định tài chính đối với những sản phẩm và những lao động bắt buộc được tạo ra bởi những người mà chính họ sản xuất ra những sản phẩm và lao động bắt buộc đó, trong ưu điểm của quyền sở hữu của họ đối với những tài sản tư (của cải tư sản).
  • Lợi nhuận có thể được tạo ra hoàn toàn trong những quá trình trao đổi buôn bán, thứ mà tự chúng rất có thể bị xóa bỏ trong không gian và thời gian khỏi lao động thuộc về hợp tác xã thứ mà những lợi nhuận bao hàm một cách cơ bản.
  • Lao động thặng dư có thể được thực hiện, mà chắc chắn không cần sự ảnh hưởng này tới bất kỳ lợi nhuận nào, bởi vì chẳng hạn như những sản phẩm của lao động đó thất bại trong việc bán đi.
  • Lợi nhuận có thể được tạo ra mà không cần có bất kỳ một lao động nào liên hệ, ví dụ như khi một mảnh đất chưa được cải tạo được bán vì lợi nhuận.*
  • Lợi nhuận có thể được tạo ra bởi một người điều hành tư, người mà không thực hiện lao động thặng dư đối với bất kỳ ai khác, hay cũng không nhất thiết phải chiếm đoạt lao động thặng dư từ bất kỳ một nơi nào khác.

Tất cả mà Marx thực sự lý luận là: lao động thặng dư là một đặc trưng cần thiết của phương thức sản xuất tư bản giống như một điều kiện xã hội chung. Nếu lao động thặng dư đó không tồn tại, những người khác không thể chiếm đoạt lao động thặng dư đó được hoặc những sản phẩm của nó thông qua quyền sở hữu tài sản của họ.

Cũng như vậy, khối lượng lao động không được trả công, lao động tình nguyện hay công việc nhà được thực hiện bên ngoài giới kinh doanh và công nghiệp, theo như được tiết lộ bằng những khảo sát sử dụng thời gian, nó đã làm nảy sinh trong tâm trí một số người theo thuyết nam nữ bình quyền (thí dụ như Marilyn Waring và Maria Miles) một điều là những người theo chủ nghĩa Marx có thể đã đánh giá quá cao tầm quan trọng của lao động thặng dư công nghiệp được thực hiện bởi những người làm công được trả lương, bởi vì khả năng thực sự để thực hiện lao động thặng dư đó, tức là sự tái sản xuất liên tục của sức lao động dựa vào tất cả các thể loại nguồn sống mà bao gồm cả những công việc không được trả công (về một chủ đề thuộc về lý thuyết, xin hãy xem sổ tay của Bonnie Fox). Nói cách khác, công việc được thực hiện trong những hộ gia đình – thường bởi những người mà không hề bán sức lao động của họ cho những xí nghiệp tư bản – đóng góp vào phương tiện sống của những công nhân tư bản, những người có thể thực hiện một khối lượng lao động trao gia đình không đáng kể.

Có thể tranh cãi về khái niệm này bị bóp méo bởi những sự khác biệt to lớn liên quan đến lĩnh vực lao động:

  • ở châu Âu, nước Mỹ, Nhật Bản và châu Đại Dương,
  • những nước công nghiệp hóa mới, và
  • những nước nghèo.

Những đất nước bất đồng sâu sắc với cách mà họ tổ chức và chia sẻ công việc, những tỉ lệ tham gia lao động, và những giờ làm việc được trả lương trong một năm, nó có thể được xác minh một cách dễ dàng từ những dữ liệu của ILO. Xu hướng phân chia lao động chung trên thế giới là để công những dịch vụ công nghệ cao, dịch vụ tài chính và dịch vụ tiếp thị được đặt tại những nước giàu hơn, những nước mà nắm giữ hầu hết những quyền lợi về tài sản trí tuệ và sản xuất vật chất thực sự để đặt ở những nước có mức lương thấp. Thực tế, những nhà kinh tế theo chủ nghĩa Marx biện luận rằng, điều này có nghĩa là lao động của những công nhân trong những nước giàu có được định giá cao hơn so với lao động của những công nhân ở những nước nghèo hơn. Mặc dù vậy, họ dự đoán rằng trên quãng đường của lịch sử, sự hoạt động của quy luật giá trị sẽ có khuynh hướng làm cho những điều kiện sản xuất và việc bán hàng ở những nơi khác nhau trên thế giới bằng nhau.